Siêu âm cọc khoan nhồi trong xây dựng cầu đường, tòa nhà, thủy điện, công trình kết cấu betong…. trong khâu đổ betong móng công trình, tường chắn đất hoặc cọc khoan nhồi, cần kiểm tra chất lượng của cấu kiện betong.
Mục đích là để phát hiện sớm các khuyết tật, rò rỉ, nứt vỡ…đảm bảo các cấu kiện hoàn toàn ổn định và an toàn kỹ thuật cho các quy trình tiếp theo của xây dựng

Những nguyên nhân và các dạng khuyết tật trong cọc khoan nhồi. Khuyết tật trong cọc có thể chia làm 02 dạng gồm: khuyết tật do địa tầng xung quanh và do bản thân cọc
Nguyên nhân có thể do cả lỗi của thiết kế và thi công, kết quả làm cho địa chất xung quanh cọc bị thay đổi các tính chất cơ lý, làm mất hoặc giảm khả năng chịu tải của cọc, hoặc làm tăng đường kính cọc cục bộ chỗ đất yếu.
Nguyên nhân chủ yếu là do kỹ thuật thi công cọc khoan nhồi, thường xảy ra trong quá trình đổ bê tông và rút ống vách sai qui định, kết quả cho ra cọc có kích thước sai lệch, cường độ bê tông nhỏ hơn yêu cầu thiết kế xảy ra ở toàn cọc hoặc cục bộ dọc thân cọc.

Trong các phương pháp trên, phương pháp xung siêu âm truyền qua ống (SLT) với kỹ thuật siêu âm truyền qua hai ống (Cross Hole Sonic Logging – CSL) hiện đang được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam và đang cho thấy tính hiệu quả trong việc đánh giá chất lượng bê tông cọc khoan nhồi bởi:
Có 04 kỹ thuật phổ biến gồm

Ống siêu âm cọc khoan nhồi được sử dụng để đặt và di chuyển các đầu dò siêu âm của thiết bị chuyên dụng phục vụ kiểm tra độ đồng nhất của bê tông cọc trong thí nghiệm siêu âm cọc.

Về mặt cấu thành, ống siêu âm cọc khoan nhồi là các ống thép có đường kính từ D49-D114. Tùy theo đường kính cọc từ D300-D2000 mà bố trí số lượng ống khác nhau. Số lượng ống siêu âm tối thiểu là 2, số lượng cụ thể sẽ dựa vào đường kính cọc để bố trí sao cho phù hợp. Các ống được đặt trong lồng ghép, liên kết dọc theo chiều dài của kết cấu thép.
Đường kính ống siêu âm có thể lên đến trên 100. Một loại hồ đặc biệt có độ co ngót và cường độ cao sẽ được bơm vào ống để ngăn nước chảy vào, gây ảnh hưởng đến chất lượng bê tông.
- Ống đo siêu âm để thả đầu đo được làm bằng thép hoặc nhựa có đường kính phù hợp với kích thước của đầu đo, ống được chôn sẵn trong bê tông. Đường kính trong của mỗi ống thí nghiệm được chọn nằm trong phạm vi từ 50 mm đến 60 mm, chiều dày của thành ống chọn từ 2 mm đến 6 mm và phải tính toán đảm bảo khả năng chịu áp lực (cả áp lực thẳng đứng và áp lực ngang). Đầu dưới của ống được bịt kín, đầu trên có nắp đậy.
- Các đoạn ống đo siêu âm có thể hàn hoặc buộc chặt vào phía trong của lồng cốt thép, khoảng cách giữa các mối hàn hoặc buộc phải đảm bảo sự ổn định của ống không bị xê dịch trong quá trình đổ bê tông. Các ống này được đặt song song với nhau dọc theo suốt chiều dài thân cọc, đáy của các ống đo được đặt ở cùng một cao độ và sát đáy hố khoan. Việc liên kết giữa các đoạn ống phải đảm bảo kín khít không cho nước bẩn hoặc các tạp chất lọt vào trong ống.
- Phía trong các ống đo siêu âm phải được kiểm tra thông suốt và đổ đầy nước sạch trước khi tiến hành đổ bê tông.
- Số lượng các ống đo được quy định tuỳ thuộc vào kích thước cấu kiện móng cần thí nghiệm. Đối với mọi cấu kiện móng khoảng cách giữa tâm hai ống kế tiếp nhau để thả đầu đo nên bố trí trong khoảng từ 0,3 m đến 1,5 m.
- Đối với cọc khoan nhồi có đường kính cọc là (Ф) thì số lượng ống đo dự tính cho một cọc như sau:
a) Hai ống khi Ф ≤ 60 cm (góc giữa các ống là 180°);
b) Ba ống khi 60 cm < Ф ≤ 100 cm (góc giữa các ống là 120o);
c) Lớn hơn hoặc bằng bốn ống khi Ф >100 cm (góc giữa các ống là ≤ 90o).
Sơ đồ bố trí ống đo siêu âm đối với các cấu kiện móng khác nhau được thể hiện như dưới đây

Sơ đồ bố trí ống đô siêu âm
CHÚ DẪN:
1 Ống đo siêu âm
2 Mặt cắt siêu âm giữa hai ống
CHÚ THÍCH: Bố trí ống đo siêu âm trong các cấu kiện móng khác nhau
a) Khi đường kính cọc Ф ≤ 60 cm (2 ống, góc giữa các ống là 180°);
b) Khi đường kính cọc 60 cm < Ф ≤ 100 cm (3 ống, góc giữa các ống là 120°);
c) Khi đường kính cọc Ф > 100 cm (≥ 4 ống, góc giữa các ống là ≤ 90o);
d) Đối với tường trong đất;
e) Đối với cọc Ba - ret.
ĐĂNG KÝ TƯ VẤN
THÔNG TIN CỦA QUÝ KHÁCH
HOÀN TOÀN BẢO MẬT